SÔNG NGÒI
Trên bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04
con sông lớn là Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Các con sông này
có đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân bố khá
đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi
Sông
Trà Bồng
Nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt
nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Trà Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn ra biển
tại của Sa Cần. Sông dài khoảng 45km, hướng chảy cơ bản từ Tây sang Đông, đoạn
cửa sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc. Phần lớn sông chảy qua vùng địa hình rừng núi
có độ cao 200- 1.300m, phần còn lại chảy trong vùng đồng bằng xen đồi trọc và
bãi cát. Phía thượng nguồn của sông Trà Bồng có nhiều phụ lưu gồm nhiều sông
suối, đáng kể như suối Nun, suối Cà Đú, sông Trà Bói ở các xã Trà Thủy, Trà
Giang. Về tới hạ lưu Đông huyện Bình Sơn có thế đất khá cao, nên sông Trà Bồng
không còn chảy xiết như đoạn trên. Nước chảy lờ đờ, như vậy mà khác với sông Vệ
và sông Trà Khúc, xưa kia người ta không thể đặt xe nước trên sông Trà Bồng.
Đoạn gần cửa sông có những vùng có độ cao 10- 40m. Sông Trà Bồng có 5 nhánh cấp
I. Ở vùng hạ lưu còn có các nhánh sông suối nhỏ chảy ngược, hợp nước vào sông
chính trước khi đổ ra biển.
Nhánh suối sâu (xã Bình Minh, huyện Bình Sơn) bắt nguồn từ núi
Đá Miếu (xã Bình An, huyện Bình Sơn) theo hướng Bắc- Nam, gặp sông chính tại An
Phong (xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn), dài 19km.
Nhánh sông Bí chảy từ Đông Phước (xã Bình Thanh, huyện Bình
Sơn) theo hướng Nam- Bắc, gặp sông chính ở Thượng Hà (xã Bình Thới, huyện Bình
Sơn) tiếp giáp với hạ lưu và cửa sông dài 12km.
Lưu vực sông Trà Bồng
bao gồm hầu hết huyện Trà Bồng và huyện Bình Sơn. Diện tích lưu vực khoảng
697km2.
Sông Trà Khúc
Nằm ở giữa tỉnh, sông
Trà Khúc là sông lớn có lượng nước dồi dào nhất so với các sông khác trong toàn
tỉnh. Ở thượng nguồn sông có 03 nguồn chính:
Nguồn thứ nhất từ vùng Giá Vụt phía Tây huyện Ba Tơ, chảy theo
hướng Nam- Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà gọi là sông Rhe.
Nguồn thứ hai bắt nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn Tây,
với các suối lớn, nhỏ hợp nước với nhau chảy theo hướng Tây- Đông xuống Sơn Hà,
gọi là sông Rinh (Đắk Rinh). Một nguồn nước rất quan trọng của sông Rinh là
sông Tang. Sông Tang bắt nguồn từ huyện Tây Trà, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông
Nam, hợp nước với sông Rinh ở đoạn làng Lô, làng Mùng xã Sơn Bao phía Tây Bắc
huyện Sơn Hà. Trên sông Tang đang xây dựng một hồ chứa nước lớn là hồ Nước
Trong.
Nguồn thứ ba bắt nguồn từ Tây Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện
Sơn Tây, chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, gọi là sông Xà Lò (Đắk Sêlô).
Ba sông chính từ các
hướng khác nhau cùng hợp nước ở các xã Sơn Trung, Sơn Hải, phía Đông Nam huyện
lỵ Sơn Hà và đoạn sông này người ta thường gọi là sông Hải Giá. Từ Hải Giá sông
chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc đến Thạch Nham (giáp với 03 huyện Sơn Hà, Sơn
Tịnh, Tư Nghĩa) thì thoát khỏi núi non, một đoạn nữa đến thôn Hưng Nhượng xã
Tịnh Đông về sau thì hướng chảy cơ bản là Tây- Đông, tuy nhiên vẫn có nhiều
đoạn sông quanh gấp khúc (do vậy được gọi là sông Trà Khúc). Ở Thạch Nham,
người ta đã xây dựng đập chắn ngang sông, để nước dâng lên, theo hai kênh Chính
Bắc- Chính Nam chảy tưới cho các
đồng bằng Quảng Ngãi. Công trình đại thủy nông Thạch Nham là một công trình
thủy lợi kỳ vĩ. Xưa kia trên sông Trà Khúc từ Đồng Nhơn (xã Tịnh Đông, huyện
Sơn Tịnh) đến cuối nguồn người ta đặt rất nhiều guồng xe nước lớn để tưới cho
đồng ruộng. Sông Trà Khúc ở các hợp lưu thượng nguồn sông đào lòng nước dữ dội
qua các thung lũng, đến hạ lưu nước vẫn chảy rất xiết cho đến khi đổ nước ra
cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc có độ dài khoảng 135km, trong đó có khoảng 1/3
chiều dài sông chảy qua vùng núi và rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn
lại chảy qua vùng đồng bằng.
Bởi hợp lưu từ nhiều
hướng khác nhau, nên sông có dạng hình cành cây, có 09 phụ lưu cấp I, 05 phụ
lưu cấp II, 06 phụ lưu cấp III và 02 phụ lưu cấp IV.
Sông Trà Khúc có diện
tích lưu vực khoảng 3.240km2, bao gồm phần đất của các huyện Sơn Hà,
Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có
một phần nguồn nhỏ thuộc địa phận tỉnh Kon Tum.
Trên bề mặt lưu vực sông
có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là rừng thưa kiểu cao
nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu là đất canh tác và đồng bằng trồng lúa chiếm
diện tích khá lớn.
Sông Vệ
Bắt nguồn từ rừng núi
phía Tây của huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, giữa các
huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức
Lợi. Sông dài khoảng 90km, trong đó 2/3 chiều dài chảy trong vùng núi có độ cao
100- 1.000m. Sông có 05 phụ lưu cấp I, 02 phụ lưu cấp II. Các phụ lưu không
lớn, đáng kể là:
Sông Liên bắt nguồn từ vùng
núi Tây Nam huyện Ba Tơ. Sông
chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, hợp nước với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ.
Sông Tà Nô hay sông Tô chảy từ đồng Bia xã Ba
Tô có độ cao trên 200m, theo hướng Tây- Đông, hợp với sông chính cách huyện lỵ
Ba Tơ 18km về phía hạ lưu.
Sông Mễ chảy từ vùng núi Mum, phần tiếp giáp giữa hai
huyện Ba Tơ và Minh Long theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp lưu tại khoảng làng
Teng xã Ba Thành, dài khoảng 09km. Dòng chính cơ bản chảy theo hướng Tây Nam-
Đông Bắc, dọc huyện Nghĩa Hành đến hết xã Hành Thiện thì sông thoát khỏi núi,
chảy trên vùng đồng bằng. Tại điểm này có trạm bơm Nam sông Vệ. Đến qua đường
sắt, sông chảy giữa hai huyện Tư Nghĩa- Mộ Đức. Trên sông Vệ xưa kia cũng có
rất nhiều guồng xe nước. Cuối nguồn, sông Vệ đổ ra cửa Lở và cửa Đại Cổ Lũy.
Sông Vệ có một chi lưu
đáng kể nhất là sông Thoa. Sông Thoa bắt đầu từ thôn Mỹ Hưng (xã Hành
Thịnh, huyện Nghĩa Hành) và thôn Phú An (xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức) theo hướng
Tây Bắc- Đông Nam đến Sa Bình (xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ) thì nhập với sông
Trà Câu rồi đổ ra biển qua cửa Mỹ Á.
Ngoài ra, còn có các
nhánh sông khác như sông Cây Bứa dài 15km, sông Phú Thọ dà 16km, hợp lưu với
sông chính gần vùng cửa sông tạo thành hình nan quạt. Sông Phú Thọ thực chất là
đoạn sông Vệ ở cuối nguồn. Nguồn của chúng chủ yếu là nước mưa của vùng tiếp
giáp giữa rừng núi và đồng bằng.
Sông Vệ có diện tích lưu
vực 1.260km2, bao gồm địa hạt các huyện Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức,
Nghĩa Hành và một phần nhỏ diện tích của huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu
vực khoảng 170m, mật độ lưới sông 0,79km/km2.
Thực vật che phủ bề mặt
lưu vực vùng thượng lưu phần lớn là rừng già, bụi rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là
vùng đất canh tác nông nghiệp.
Sông
Trà Câu
Bắt nguồn từ vùng núi Ba
Trang (huyện Ba Tơ), với độ cao 400m. Dòng sông chính chủ yếu chảy theo hướng
Tây- Đông, đoạn trên thường gọi là sông Vực Liêm. Ở cuối nguồn, sông Trà Câu
nhập lưu với sông Thoa tại Sa Bình, xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, rồi đổ ra cửa
Mỹ Á cách đó khoảng 2,5km.
Sông Trà Câu có diện
tích lưu vực 442km2, chiều dài sông khoảng 32km; chiều dài lưu vực 19km và
chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây là con sông nhỏ nhất trong các sông kể
trên, nước thường cạn kiệt về mùa khô.
Lưu vực sông Trà Câu bao
gồm một phần phía Đông và phía Đông Nam huyện Ba Tơ, các xã Phổ Phong, Phổ
Thuận, Phổ Nhơn huyện Đức Phổ. Lớp phủ thực vật chủ yếu là rừng thưa và đồi
trọc.
Ngoài 04 con sông chính
trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà bồng), sông Cái (Tư
Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân (Đức Phổ),…
Sông ngòi Quảng Ngãi đều
xuất phát từ Đông Trường Sơn và chảy ra biển Đông. Dòng sông ngắn, độ dốc cao
(từ 10,5 độ đến 33 độ), lòng sông cạn và hẹp nên vào mùa mưa (có lượng mưa rất
nhiều) dòng chảy cường độ mạnh, thường gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại cho sản
xuất và đời sống, mặt khác cũng mang về cho đồng bằng một lượng phù sa đáng kể.
Với mạng lưới sông suối dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà
Khúc, sông Vệ và Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao có độ dốc lớn với
lượng nước nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá trị. Ở các huyện miền núi nhân
dân đã đắp đập để làm thuỷ điện.
Đặc trưng thủy văn các sông chính tỉnh Quảng Ngãi
Sông
|
Chiều
dài sông (km)
|
Chiều
dài
lưu
vực (km)
|
Chiều
rộng
lưu
vực (km)
|
Diện
tích
lưu
vực (km2)
|
Trà Bồng
|
45
|
56
|
12,4
|
697
|
Trà Khúc
|
135
|
123
|
26,3
|
3.240
|
Sông Vệ
|
90
|
70
|
18,0
|
1.260
|
Trà
Câu
|
32
|
19
|
14,0
|
442
|